THƠ: TÔI VÀ EM




                                       TÔI VÀ EM

        Em và tôi, hai đứa đúng một đôi
        Nên tình ta gắn bó mãi không thôi
        Và lắm lúc tưởng như hai là một
        Để đau lòng khi một vẫn là hai

        Bao mâu thuẫn giữa tôi, em đầy rẫy
        Khiến ngỡ ngàng quen, lạ, mối nhân duyên
        Em thân thương xiết bao tôi gần gũi
        Lại xa xôi cách trở đến muôn trùng!

        Tôi vẫn tưởng đã hiểu em nguồn ngọn
        Hoá ra tôi khờ khạo nhất nhân gian!
        Em là em chứ không phải nửa tôi
        Sao hão huyền tôi lại đi ngông tưởng

        Em và tôi, hai đứa vẫn là hai
        Chấp nhận đi dẫu thực tại có phũ phàng
        Hai tinh cầu, hai quỹ đạo, đôi nơi!
        Tôi đã thuộc bài học "EM", cay đắng!

        Em và tôi, hai đứa đúng một đôi
        Chung đoạn đường, chung đích đến em ơi
        Ta dẫu sao cũng vẫn chỉ "con người"
        Còn trần gian không bao giờ là "thượng giới"

        Em một nửa, gắn vào tôi một nửa
        Keo tơ duyên lắm lúc cũng mong manh
        Đường đời lăn bao khúc khuỷu gập ghềnh
        Em một nửa và tôi là một nửa.
                        -------------------
                  Giuse Nguyễn văn Sướng .

TRUYỆN NGẮN: NGƯỜI THỢ ĐIÊU KHẮC






                         Người Thợ Điêu Khắc.

      Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng , nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả .
      Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, Thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!
      Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.
      - Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?
     Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
    -Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng…Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
       Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
      - Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.
                                         *
                                      *     *
       Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh  và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!
       Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong
cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!
       Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy  khó khắc  hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!
       Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
        Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới  thánh thiện làm sao!
       Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết ( * ), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.
      Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi!  Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!
      Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
      Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.
                                         *
                                       *     *
      Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
      Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…
                                           *
                                        *    *
       Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.
     ------------------------------------------------------------
           Giu-Se Nguyễn Văn Sướng.

( * ) đốc chết: điềm gở báo sự chết gần tới.

THƠ: YÊU TA, EM KHỔ




YÊU TA, EM KHỔ

Vì sao em lại ghét?
Mùi bia, chiều anh về nhà, mắt đỏ
Lóng ngóng, ngượng ngùng!

Vì sao em lại giận?
Bó rau anh thái, vụng về
Nồi canh rầu vì con sâu anh khờ khạo!

Vì sao em lại tức?
Bừa phứa, áo quần anh
Anh một đời lôi thôi, lếch thếch
Đã chắc gì kẻ mượt nếp, thẳng ly!

Hình như em có gì không vừa ý?
Hình như...em thất vọng?
Hay hình như em vẫn cứ hoài mong?
Ta, thằng nửa người, nửa ngợm
Yêu ta, em cực khổ trăm bề!

Ta biết thế nên ta đành câm nín
Chuyện tình nào chẳng hai mặt em ơi!
Ta rặt những ... mộng mơ
Nên vẫn luôn là thằng thất bại
Đem chữ nghĩa ra vầy vò, cào xé.

Em luôn luôn là Định lý
Ta suốt đời làm giả thiết, chứng minh hoài
sai vẫn cứ sai
Ta yêu em...nên một đời em khổ!
--------------------------------------------
Giuse nguyễn văn Sướng

THƠ: ÔNG BA GIÀ




ÔNG BA GIÀ

Con chạy về gọi ba
Mũi con chảy lòng thòng
Và con không chùi được!

Có lẽ quá trăm lần
Trong một ngày đời sống
Con quấy quả đến ba
Và trăm lần như một
Ba bỏ dở việc ba
Lo cho con tươm tất

Ba làm việc trong nhà
Lúc nào cũng có mặt
Vô tình ba là mẹ
Cả bốn đứa con ba
Một tay ba săn sóc
suốt ngày đã quen tai
Nghe ba ơi, ba hỡi.

Nhưng đấy là chuyện xưa
Chuyện nay thì lại khác
Ba giờ đã...ông "bô"
Lỗi thời hằng thế kỷ
Cả bốn đứa con ba
Giờ không cần ba nữa!

 
Có những lúc cô đơn
Ngồi trầm ngâm suy nghĩ
Con nước đã xuôi dòng
Như đời người qua đi
Mong gì còn trở lại!

Chuyện nay thì đã thế
Thế còn chuyện ngày sau
Ngày sau ba tóc trắng
Mắt kém và chân run
Ba bỗng nên gánh nặng
Đứa nào chịu gánh ba?

Chuyện ngày sau buồn lắm
Giá mà chẳng xảy ra
Để cả bốn đứa con
Được nhẹ lòng vui vẻ

Chuyện ngày sau buồn lắm
Giá mà...chẳng xảy ra!
    ----------------------
 Giu se Nguyễn văn Sướng

THƠ: DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN TỪ





DỤ NGÔN NGƯỜI CHA
NHÂN TỪ


Bao nhiêu tháng ngày nâng niu, bồng ẵm
Bao nhiêu thương mến, bảo bọc, chở che
Lời khôn ngoan dạy dỗ rất ân cần
Tất thảy giờ đem đổ sông, đổ biển!

Con ta ơi, con cho mình khôn lớn
Thói hoang đàng, trụy lạc mãi bê tha
Chỉ ăn chơi phung phá mới thoả lòng
Thì đạo nghĩa kể gì bao luân lý.

Cha còn sống khác chi cha đã chết
Thêm rầy rà, thêm cản trở con thôi
Đã dứt tình con quyết chí ra đi
Đành gạt lệ cha trông theo đau đớn.

Con đi rồi biệt bóng chim tăm cá
Cha ở nhà những thắc thỏm lo âu
Giữa thế gian đầy sói dữ hại người
Bao hung hiểm ai chở che, bảo bọc?

Con đi rồi cha buồn phiền trắng tóc
Những băn khoăn sầu muộn suốt canh thâu
Những quên ăn, biếng ngủ, mãi mong chờ
Những tháng ngày dài ra như bất tận.

 
Con đi rồi nhà bỗng ra hoang vắng
Miếng ăn ngon cũng gợi nhớ đến con
Giữa nắng mưa, rét mướt biết bao giờ?
Lòng quặn thắt khi đêm về, tăm tối.


Con đi rồi chiều chiều cha tựa cửa
Ngày qua ngày ra ngõ ngóng con xa
Thoáng xa xa một bóng khách lữ hành
Là tim đập dập dồn bao hy vọng.

Con bất hiếu, cha vẫn thương thắm thiết
Con hư thân, vẫn da diết cha yêu
Luôn giật mình khi chợt thoáng nghĩ quanh
Hay con đã...bỏ mình nơi đất khách.

Con yêu ơi cái buổi chiều định mệnh
Bóng con về dù còn rất xa xôi
Dáng thân quen bóng xiêu đổ trên đường
Cha vẫn nhận ra thằng con yêu dấu.

Không cần nói hãy để cha ôm ấp
Vuốt ve con cho thoả tấm lòng cha
Con ta đây tưởng chết hoá ra còn
Hạnh phúc về, cha tuôn trào nước mắt.

Không cần biết con hoang đàng khốn nạn
Con đã về, thế là đủ con ơi
Chỉ cần về con sẽ lại con cha
Và mãi mãi là con cha thương mến.

----------------------------------------
     Giuse Nguyễn văn Sướng


THƠ: LY HÔN




 LY HÔN

Anh xuống nước thầm: Mình nghĩ lại
Chị càng lên giọng: chẳng dằng dai
Gan làm gan chịu sao hèn thế
Tình nghĩa đôi ta phải rẽ hai.

Anh trót đèo bòng gây sóng gió
Giờ ngồi chịu trận mặt buồn xo
Những lời cay độc tuôn không dứt
Đẹp mặt mày chưa cái mặt mo.

Hai đứa con nước mắt chạy quanh
Thằng em run rẩy, chị tái xanh
Cây non đứng trước cơn giông bão
Mơ hồ đời rẽ một khúc quanh.

Tấm giấy ly hôn chị giục ký
Dùng dằng anh không nỡ phân ly
Thương vợ thương con tình vẫn nặng
Đau thắt ruột gan lúc biệt ly.

Một bước sa chân đành ôm hận
Tội nhân thiên cổ cắt tình thâm
Trách người quan xét sao công thẳng
Người ta ai chẳng lúc lỡ lầm!
----------------------------------------------
    Giu-se Nguyễn văn Sướng       

THƠ: MẠ



  MẠ

Ngày làm rể mạ con đã ba mươi
Mà vẫn vô tâm như chàng trai mới lớn!
Ba mạ đến chơi
Con đã gắp lên chén mạ miếng thịt gà to
Quên mất mạ "Thất thập cổ lai hy"
Miếng thịt gà còn mãi trên chén mạ
Và còn mãi trong lòng con, ân hận.
Một lần con làm hề, cả nhà cười vui vẻ
Mạ che miệng cười, nói nhỏ: "Người ni..."
Thuở thiếu thời hẳn mạ yểu điệu thanh tao.

Nhà con nghèo bữa no lo bữa đói
Chưa một lần con mua quà biếu mạ!
Con gái út mạ cưng, mạ gả cho con làm bạn
Yêu vợ nhiều con càng quý mến mạ hơn.
Giờ lâm chung trên tay con mạ mất
Xác ve mạ chỉ nặng như đứa bé lên năm
Con đã nghẹn ngào vuốt mắt mạ tiễn đưa

Con nước xuôi dòng, mạ giờ chỉ còn là ký ức
Là ký ức êm đềm trong lòng rể út mạ, mạ ơi !
                 --------------------
          Giu se Nguyễn văn Sướng

THƠ: QUA BA, CON THAY CHÚA



QUA BA,

CON THẤY CHÚA

Qua  Ba,  con đã thấy
Hình ảnh Đức Chúa Cha
Bởi lòng thương dào dạt
Và bởi những hy sinh

Không dễ gì hiểu được
Nếu chưa từng trải qua
Không dễ gì thấy được
Cho dù bằng đức tin
Nhưng qua Ba, con thấy
Một Chúa Cha tuyệt vời

Những bảo bọc lo toan
Những ngược xuôi vất vả
Cái trợn mắt, nghiến răng
Cái thở dài, buồn bực
Bàn tay to sờ trán
Cũng tay ấy cầm roi

Có gì như ảo ảnh
Thoảng hiện hữu rất nhanh
Có gì như sương khói
Vừa chạm nhẹ tơ lòng
Chúa cao cả nghìn trùng
Qua Ba, con đã thấy...

-----------------------------------
  Giuse  Nguyễn văn Sướng .

THƠ: QUÊ HƯƠNG



QUÊ HƯƠNG

Xa quê từ khi còn trong bụng mẹ
Con đâu biết diện mạo quê mình
Thuở bé học trong sách vở
Quê cha có một dòng sông ...
Cây đa đầu làng quê mẹ
Những trưa hè vùng vẫy dưới sông
Và chiều chiều trên lưng trâu nghe tiếng sáo..."
Ôi! QUÊ HƯƠNG, nghe thân thương gần gũi
Lại xa mờ, lạ lẫm trong con!

Hôm ba con mất
Chú khấp khểnh vào chịu tang
Và tình quê dậy sóng.
  -----------------------------------------
  Giuse Nguyễn văn Sướng .

THƠ: GIA ĐÌNH


GIA ĐÌNH

Mẹ đi lấy dượng xa
Cha cũng đón dì về...
              *
           *      *
Anh giận bỏ đi hoang
Chị theo về cùng mẹ
Con còn ở với cha
Cả một nhà tan hoang
Bởi đâu ra duyên cớ!
               *
           *        *
Cha có lý của cha
Mẹ có quyền của mẹ
Chúng con phải hy sinh
Vì lý , quyền cha mẹ
Một thời con ấu thơ
Không có nổi nụ cười
Ba anh em, ba ngã
Chẳng còn nhớ mặt nhau!
                  *
              *        *
 
Bài thơ buồn con viết
Cũng câm nín như con
Như một tiếng thở dài
Kìm nén sâu trong ngực
Tuổi thơ con buồn tẻ
Không nựng nịu, vuốt ve
Không nhõng nhẽo, giận hờn
Và không cả lời ru!
                   *
               *        *
Mẹ, Cha ơi có biết
Đàn con nhỏ ngây thơ
Thèm tình thương cha mẹ
  ước hoá  xa vời
Ngày buồn theo con lớn
Tình theo tháng nhạt phai
Tuổi thần tiên đã mất
Chỉ còn lại thương lòng!
-----------------------------
 Giuse Nguyễn văn Sướng

THƠ: NHỚ CHA



    NHỚ CHA


 (Kính nhớ về Cha tôi.)

Tháng sáu, nắng như tạt lửa
Con tiễn Thày (*) đi,  không trở lại
Ngoài đường, phượng rực cháy trên cao
Và dưới hồ, hoa sen nở kín
Những tháng sáu ra đi và những tháng sáu trở lại
Thày vẫn biền biệt
Cuộc sống với những bộn bề,  toan tính!
Đứa bé ngày nào nửa đêm choàng tỉnh khóc vì cha không nằm bên cạnh giờ
         tóc đã hoa râm!
Những tưởng nỗi nhớ rồi sẽ nguôi ngoai theo năm tháng
Nào ngờ vẫn rực cháy trong tim mỗi độ tháng sáu trở về.
Nhớ Thày xưa thường hay thở dài!
Nhà nghèo con đông
Nhịn ăn nhịn mặc nhịn cả...ước mơ!
Chắt chiu từng đồng, bữa no lo bữa đói
Bốn mùa mưa nắng dầu dãi tấm thân

Tháng sáu nắng như tạt lửa
Cháy đỏ trong con nỗi nhớ không nguôi
Những xót xa, day dứt, buồn phiền
Hằn lên trán con dấu thời gian để lại

Tháng sáu đi và tháng sáu trở lại
Thằng bé của Thày giờ tóc đã hoa râm!
        
       Giuse   Nguyễn văn Sướng 
  (*) Thày: Phương ngữ của một số địa phương miền bắc, tương tự như Tía trong Nam

THƠ: NHỚ CON




NHỚ CON


Con đi làm xa
Gởi tiền về cho mẹ
Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống!
Gió vào thì gió lại ra
Tiền con như muối bỏ vào biển khơi!

Ba, đầu đã bạc
Lực bất tùng tâm
Cầm tiền con gởi về
Lòng ngậm ngùi nhức nhối
Thương con gái nhỏ phương xa
Sinh nhai vất vả.

Ngày nào ba chở đến trường
Lon ton chạy vào lớp học
Ba, giờ không còn là mái ấm
Để con phải lận đận tha phương!

Giá con đừng hiếu thảo
Đời con sẽ bớt khổ, con ơi.
Lòng ba cũng không phải cay đắng, bùi ngùi.

Chiều nay sao thật tệ
Bỗng dưng nhớ đứa con gái nhỏ đến quay quắt lạ lùng.
-----------------------------------------------------
         Giuse Nguyễn văn Sướng